I. Quá trình thành lập các làng
Toàn cảnh thành phố
Vào nửa sau thể kỷ 19, lúc thực dân Pháp thông cửa Quy Nhơn, một đô thị mới hình thành bên bờ đầm Thị Nại. Cơ Mật Viện của triều đình Huế đề nghị thành lập thị xã Quy. Ngày 30.8.1899, Toàn quyền Đông Dương là Paul Doumer ra quyết định chuẩn y.
Năm 1900, thị xã Quy Nhơn bao gồm đất hai làng Chánh Thành và Cẩm Thượng thuộc huyện Tuy Phước có diện tích khoảng 7km2.
Ngày 30.4.1930, Toàn quyền Đông Dương Pasquier ra nghị định nâng cấp thị xã Quy Nhơn (Centre Urbain de Quy Nhơn) lên thành phố (Commune de Quy Nhơn).
Thành phố Quy Nhơn được chia làm 5 khu phố (Quartier), khu 1 và 2 thuộc làng Chánh Thành, khu 3, 4 thuộc làng Cẩm Thượng và khu 5 ở phía tây là đất của làng Hưng Thạnh.
Chợ cá hải cảng, cuối đường Trần Hưng Đạo
(Đây là căn cứ để hình thành cách gọi từng phần khu trong thành phố còn lưu truyền tới nay. Theo đó, hiện tại có 6 khu. Em là dân khu 6. Dân hải cảng là khu 1 và khu 2, hai khu này quen đi biển, ăn sóng nói gió, giọng nói và gương mặt có nhiều nét đặc trưng, khác hẳn so với 4 khu còn lại của TP)
1. Thôn Vĩnh Khánh từ thế kỷ 18 về trước:
Làng cổ lâu đời nhất ở trung tâm thành phố hiện nay, từ thế kỷ 18 trở về trước có tên là thôn Vĩnh Khánh.
Di vật cổ xưa nhất còn xót lại của thôn Vĩnh Khánh là chiếc khánh của chùa Long Khánh làm năm Kỷ Mùi. Chiếc khánh này có thể đúc từ năm 1739, qua nhiều năm lưu lạc đến đầu thể kỷ XIX khi trùng tu chùa Long Khánh, chiếc khánh mới được trả lại cho ngôi cổ tự này và được bảo quản cho đến nay.
Chùa Long Khánh là ngôi cổ tự danh tiếng của thành phố Quy Nhơn.
Chùa Long Khánh
2. Hai làng Chánh Thành và Cẩm Thượng từ đầu thế kỷ 19 về sau:
Sự phát triển dân số và mở rộng địa cư từ thôn Vĩnh Khánh đã thành lập nên hai làng Chánh Thành và Cẩm Thượng. Cư dân thành phố Quy Nhơn được khởi đầu từ hai làng này.
Các di tích có thể tìm thấy bây giờ ở làng Chánh Thành là chùa Ông (Quan Thánh Đế) 253 Bạch Đằng, đình làng Chánh Thành ở Chợ Lớn Quy Nhơn, miếu Bà (ở xóm Trường) phường Hải Cảng, miếu Lăng Ông (đường Nguyễn Huệ), miếu Thanh Minh (KV3 phường Trần Phú)...
Miếu Thanh Minh, KV3 phường Trần Phú
Một góc đường Nguyễn Huệ
Đình làng Cẩm Thượng ngày xưa hiện là Nhà Văn hóa thành phố Quy Nhơn ở 354 Trần Hưng Đạo, Quy Nhơn.
Trong thế kỷ XIX, làng Cẩm Thượng tiếp nhận một khối lượng lớn các thương nhân người Hoa nhập cư, lập phố và buôn bán. Họ đã phát huy vai trò thương nghiệp của họ trong suốt thế kỷ XIX về sau. Họ lập phố, hội quán trên các đường Trần Hưng Đạo, Bạch Đằng, Đào Duy Từ, Nguyễn Văn Bé, Ngô Thời Nhiệm hiện nay.
Trục đường Trần Hưng Đạo – Bạch Đằng, Quy Nhơn
3. Hai thôn Hưng Thạnh và Xuân Quang
Làng Hưng Thạnh nằm giữa núi Bà Hỏa phía nam và sông Hà Thanh phía bắc, phía đông là Làng Cẩm Thượng. Đất làng Hưng Thạnh nay là phường Đống Đa của thành phố Quy Nhơn.
Đầm Đống Đa, đất làng Hưng Thạnh ngày trước
Thôn Xuân Quang ngày trước nằm đối mặt với hồ Đèo Son (đầm Phú Hòa - nay còn gọi là Ao Cá Bác Hồ).
Ngoài ra còn các thôn Xuân Vân, Quy Hòa và một số thôn khác ở hai phường Nhơn Bình, Nhơn Phú, bán đảo Phương Mai và Cù Lao Xanh...
II. Quá trình tụ cư, phát triển phố xá, hội quán của người Hoa
Vào đầu thế kỷ 19, thương nhân người Hoa đã xuất hiện trên bến cảng Quy Nhơn và quá trình buôn bán của họ diễn ra ngày càng mạnh mẽ từ những năm bốn mươi của thế kỷ XIX:
Khu trung tâm Thành phố, quanh tượng đài Quang Trung
- Quỳnh Phủ hội quán (ở 66 Mai Xuân Thưởng, nay là trường PTCS Trần Hưng Đạo I) xây dựng năm Quý Sửu niên hiệu Đạo Quang 1843
- Triều Châu hội quán (17/2 Ngô Thời Nhiệm) còn lưu giữ nhiều hoành phi có ghi niên hiệu các triều vua nhà Thanh;
- Phúc Kiến hội quán là một kiến trúc Á Đông đồ sộ và lộng lẫy ở Quy Nhơn được trùng tu lần thứ nhất năm Giáp Thìn, 1904. Nay được sử dụng làm trường phổ thông cấp II Trần Hưng Đạo số II;
- Quảng Đông hội quán (số 96 Trần Cao Vân) còn lưu lại bức phù điêu cổ ghi bốn chữ "Túc Tịnh hồi tỵ" năm 1887;
- Ngũ bang hội quán (ở 81 Trần Hưng Đạo) thờ Thiên Hậu Thánh mẫu là ngôi đền chung của người Hoa ở Quy Nhơn gồm các bang Quỳnh Phủ (Hải Nam), Triều Châu, Quảng Đông, Phúc Kiến và Minh Hương.
III. Quy Nhơn dưới con mắt thực dân Pháp
Năm 1874, người Pháp mở cửa khẩu Hải Phòng, thông sông Hồng vào Hà Nội với cả Bắc kỳ để phát triển sang Trung Quốc. Với ý nghĩa chiến lược quan trọng tương tự như thế, thực dân Pháp đặt vị trí cửa khẩu Thị Nại cho cả miền Trung, Tây Nguyên và phát triển sang cả Đông Dương.
---o0o---
Một vài hình ảnh thành phố Quy Nhơn hiện nay
Nhà thờ Nhọn
Chùa Long Khánh
Đền Ông Nam Hải
Miếu Thanh Minh
(Những hình này chụp vào dịp cúng lễ Thanh minh tiết tháng 3. Đến đình, miếu mùa này hay được mời ở lại ăn cỗ. Hầu như đình miếu nào cũng cúng thủ lợn, cầu mong một năm mưa thuận gió hòa)
Thành phố Quy Nhơn chào mừng tiến lên đô thị loại một.
Bùng binh Tây Sơn, P.Quang Trung (chỗ giáp bến xe QN) là đất của làng Xuân Quang ngày trước. nhà em ở gần chỗ này
Phường Quang Trung ngày trước là đất của làng Xuân Quang. Họ Đoàn là một trong những họ sớm nhất đến lập làng ở Xuân Quang. Em cũng họ Đoàn, nhà ở phường Quang Trung. Hồi thế kỷ 18, em đã cắm dùi ở đất này :))
Đại lộ An Dương Vương dọc đường bờ biển Quy Nhơn
Một buổi sáng trên bờ biển
Đường Xuân Diệu
Quảng trường Chiến Thắng và đường Nguyễn Huệ
Khu vực trung tâm thành phố quanh tượng đài Quang Trung
Đầm Phú Hòa (nay còn gọi là Ao Cá Bác Hồ)
Đầm Đống Đa
Khu vực cầu Đen phường Đống Đa, nơi còn duy trì nghề đóng tàu đi biển
Chợ cá Hải Cảng
---o0o---
>> Các xã đảo của Quy Nhơn
Toàn cảnh thành phố
Vào nửa sau thể kỷ 19, lúc thực dân Pháp thông cửa Quy Nhơn, một đô thị mới hình thành bên bờ đầm Thị Nại. Cơ Mật Viện của triều đình Huế đề nghị thành lập thị xã Quy. Ngày 30.8.1899, Toàn quyền Đông Dương là Paul Doumer ra quyết định chuẩn y.
Năm 1900, thị xã Quy Nhơn bao gồm đất hai làng Chánh Thành và Cẩm Thượng thuộc huyện Tuy Phước có diện tích khoảng 7km2.
Ngày 30.4.1930, Toàn quyền Đông Dương Pasquier ra nghị định nâng cấp thị xã Quy Nhơn (Centre Urbain de Quy Nhơn) lên thành phố (Commune de Quy Nhơn).
Thành phố Quy Nhơn được chia làm 5 khu phố (Quartier), khu 1 và 2 thuộc làng Chánh Thành, khu 3, 4 thuộc làng Cẩm Thượng và khu 5 ở phía tây là đất của làng Hưng Thạnh.
Chợ cá hải cảng, cuối đường Trần Hưng Đạo
(Đây là căn cứ để hình thành cách gọi từng phần khu trong thành phố còn lưu truyền tới nay. Theo đó, hiện tại có 6 khu. Em là dân khu 6. Dân hải cảng là khu 1 và khu 2, hai khu này quen đi biển, ăn sóng nói gió, giọng nói và gương mặt có nhiều nét đặc trưng, khác hẳn so với 4 khu còn lại của TP)
1. Thôn Vĩnh Khánh từ thế kỷ 18 về trước:
Làng cổ lâu đời nhất ở trung tâm thành phố hiện nay, từ thế kỷ 18 trở về trước có tên là thôn Vĩnh Khánh.
Di vật cổ xưa nhất còn xót lại của thôn Vĩnh Khánh là chiếc khánh của chùa Long Khánh làm năm Kỷ Mùi. Chiếc khánh này có thể đúc từ năm 1739, qua nhiều năm lưu lạc đến đầu thể kỷ XIX khi trùng tu chùa Long Khánh, chiếc khánh mới được trả lại cho ngôi cổ tự này và được bảo quản cho đến nay.
Chùa Long Khánh là ngôi cổ tự danh tiếng của thành phố Quy Nhơn.
Chùa Long Khánh
2. Hai làng Chánh Thành và Cẩm Thượng từ đầu thế kỷ 19 về sau:
Sự phát triển dân số và mở rộng địa cư từ thôn Vĩnh Khánh đã thành lập nên hai làng Chánh Thành và Cẩm Thượng. Cư dân thành phố Quy Nhơn được khởi đầu từ hai làng này.
Các di tích có thể tìm thấy bây giờ ở làng Chánh Thành là chùa Ông (Quan Thánh Đế) 253 Bạch Đằng, đình làng Chánh Thành ở Chợ Lớn Quy Nhơn, miếu Bà (ở xóm Trường) phường Hải Cảng, miếu Lăng Ông (đường Nguyễn Huệ), miếu Thanh Minh (KV3 phường Trần Phú)...
Miếu Thanh Minh, KV3 phường Trần Phú
Một góc đường Nguyễn Huệ
Đình làng Cẩm Thượng ngày xưa hiện là Nhà Văn hóa thành phố Quy Nhơn ở 354 Trần Hưng Đạo, Quy Nhơn.
Trong thế kỷ XIX, làng Cẩm Thượng tiếp nhận một khối lượng lớn các thương nhân người Hoa nhập cư, lập phố và buôn bán. Họ đã phát huy vai trò thương nghiệp của họ trong suốt thế kỷ XIX về sau. Họ lập phố, hội quán trên các đường Trần Hưng Đạo, Bạch Đằng, Đào Duy Từ, Nguyễn Văn Bé, Ngô Thời Nhiệm hiện nay.
Trục đường Trần Hưng Đạo – Bạch Đằng, Quy Nhơn
3. Hai thôn Hưng Thạnh và Xuân Quang
Làng Hưng Thạnh nằm giữa núi Bà Hỏa phía nam và sông Hà Thanh phía bắc, phía đông là Làng Cẩm Thượng. Đất làng Hưng Thạnh nay là phường Đống Đa của thành phố Quy Nhơn.
Đầm Đống Đa, đất làng Hưng Thạnh ngày trước
Thôn Xuân Quang ngày trước nằm đối mặt với hồ Đèo Son (đầm Phú Hòa - nay còn gọi là Ao Cá Bác Hồ).
Ngoài ra còn các thôn Xuân Vân, Quy Hòa và một số thôn khác ở hai phường Nhơn Bình, Nhơn Phú, bán đảo Phương Mai và Cù Lao Xanh...
II. Quá trình tụ cư, phát triển phố xá, hội quán của người Hoa
Vào đầu thế kỷ 19, thương nhân người Hoa đã xuất hiện trên bến cảng Quy Nhơn và quá trình buôn bán của họ diễn ra ngày càng mạnh mẽ từ những năm bốn mươi của thế kỷ XIX:
Khu trung tâm Thành phố, quanh tượng đài Quang Trung
- Quỳnh Phủ hội quán (ở 66 Mai Xuân Thưởng, nay là trường PTCS Trần Hưng Đạo I) xây dựng năm Quý Sửu niên hiệu Đạo Quang 1843
- Triều Châu hội quán (17/2 Ngô Thời Nhiệm) còn lưu giữ nhiều hoành phi có ghi niên hiệu các triều vua nhà Thanh;
- Phúc Kiến hội quán là một kiến trúc Á Đông đồ sộ và lộng lẫy ở Quy Nhơn được trùng tu lần thứ nhất năm Giáp Thìn, 1904. Nay được sử dụng làm trường phổ thông cấp II Trần Hưng Đạo số II;
- Quảng Đông hội quán (số 96 Trần Cao Vân) còn lưu lại bức phù điêu cổ ghi bốn chữ "Túc Tịnh hồi tỵ" năm 1887;
- Ngũ bang hội quán (ở 81 Trần Hưng Đạo) thờ Thiên Hậu Thánh mẫu là ngôi đền chung của người Hoa ở Quy Nhơn gồm các bang Quỳnh Phủ (Hải Nam), Triều Châu, Quảng Đông, Phúc Kiến và Minh Hương.
III. Quy Nhơn dưới con mắt thực dân Pháp
Năm 1874, người Pháp mở cửa khẩu Hải Phòng, thông sông Hồng vào Hà Nội với cả Bắc kỳ để phát triển sang Trung Quốc. Với ý nghĩa chiến lược quan trọng tương tự như thế, thực dân Pháp đặt vị trí cửa khẩu Thị Nại cho cả miền Trung, Tây Nguyên và phát triển sang cả Đông Dương.
---o0o---
Một vài hình ảnh thành phố Quy Nhơn hiện nay
Nhà thờ Nhọn
Chùa Long Khánh
Đền Ông Nam Hải
Miếu Thanh Minh
(Những hình này chụp vào dịp cúng lễ Thanh minh tiết tháng 3. Đến đình, miếu mùa này hay được mời ở lại ăn cỗ. Hầu như đình miếu nào cũng cúng thủ lợn, cầu mong một năm mưa thuận gió hòa)
Thành phố Quy Nhơn chào mừng tiến lên đô thị loại một.
Bùng binh Tây Sơn, P.Quang Trung (chỗ giáp bến xe QN) là đất của làng Xuân Quang ngày trước. nhà em ở gần chỗ này
Phường Quang Trung ngày trước là đất của làng Xuân Quang. Họ Đoàn là một trong những họ sớm nhất đến lập làng ở Xuân Quang. Em cũng họ Đoàn, nhà ở phường Quang Trung. Hồi thế kỷ 18, em đã cắm dùi ở đất này :))
Đại lộ An Dương Vương dọc đường bờ biển Quy Nhơn
Một buổi sáng trên bờ biển
Đường Xuân Diệu
Quảng trường Chiến Thắng và đường Nguyễn Huệ
Khu vực trung tâm thành phố quanh tượng đài Quang Trung
Đầm Phú Hòa (nay còn gọi là Ao Cá Bác Hồ)
Đầm Đống Đa
Khu vực cầu Đen phường Đống Đa, nơi còn duy trì nghề đóng tàu đi biển
Chợ cá Hải Cảng
(trích tư liệu)
---o0o---
>> Các xã đảo của Quy Nhơn