A. Phủ Hoài Nhơn thế kỷ XV-XVI:
Năm 1390, khi số phận anh hùng của Chế Bồng Nga chôn vùi trên đất Thăng Long, vương quốc Champa suy yếu hẳn.
Năm 1402, triều Hồ cho quân đánh chiếm đất Chiêm Động, Cổ Lũy mở thêm đất đai hai châu Thăng Long và Tư Nghĩa, người Việt vào lập làng trên những phần đất của 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi hiện nay.
70 năm sau, vào thời cực thịnh của nhà Lê, vua Lê Thánh Tôn đánh chiếm kinh thành Vijaya, bắt vua Chiêm là Trà Bồng và hơn 3 vạn người làm tù binh. Mồng 1 tháng 3 năm Hồng Đức thứ 2 (1471) nước Đại Việt mở đất đến núi Thạch Bi.
Núi Thạch Bi ở ranh giới hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay, là biên giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành sau năm 1471. Sau chiến thắng này, vua Lê Thánh Tông đã cho mài đá khắc bia ở đỉnh núi cao nhất, bên bờ biển, dựng bia làm mốc giới ghi lại như một lời thề với núi sông. Tương truyền Vua cho khắc hai dòng chữ:
“Chiêm Thành quá thử, binh bại quốc vong
An Nam quá thử, tướng tru binh diệt”
Có nghĩa là: Chiêm Thành qua đấy, quân thua nước mất; An Nam qua đấy, tướng chết quân tan (theo Nguyễn Siêu, Phương đình dư địa chí, bản dịch Ngô Mạnh Minh, Sài Gòn, Tự Do, 1960, tr.132)
Nước Champa suy yếu, bại trận lại bị chia thành 3 tiểu quốc:
. Chiêm Thành: từ núi Thạch Bi trở về Nam, phong cho Bố Trì Trì, một tướng Chiêm xin hàng phục
. Nam Bàn: từ núi Thạch Bi trở về phía Tây cho dòng dõi vua Chiêm
. Hoa Anh: nước này nhanh chóng bị suy yếu, tàn lụi nên chưa xác minh được
Từ năm 1471, lập phủ Hoài Nhơn và sau đó là phủ Quy Nhơn, lãnh thổ chỉ đến đèo Cù Mông. Phủ Hoài Nhơn có 3 huyện là Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn
Từ đó người Việt bắt đầu tiến dần vào sinh sống ở phủ Hoài Nhơn. Ngoài dân nghèo vào lập nghiệp còn có lực lượng quân đội, đặc biệt là các phạm nhân bị tội lưu đày cũng được quân đội hóa thành lực lượng chiến đấu và sản xuất ở vệ Hoài Nhơn. Trong Lịch triều Hiến chương loại chí có ghi chi tiết này: “Tháng 4 (năm Hồng Đức thứ 5-1474) có sắc chỉ rằng: Tù xử tội lưu, đi cận châu thì sung vệ quân Thăng Hoa, đi ngoại châu thì sung về Tư Nghĩa, đi viễn châu thì sung về quân Hoài Nhơn, tội nhân được tha chết cũng sung về quân Hoài Nhơn” (Phan Huy Chú, lịch triều hiến chương loại chí, hình luật chí ).
Chúng ta hình dung đó là lớp cư dân đầu tiên của người Việt vào thế kỷ XV di dân đến đất phủ Hoài Nhơn, một cộng đồng nông dân nghèo, binh lính và phạm nhân trọng tội được đặc ân cho lưu đày và được quân đội hóa. Các làng xã cũng được hình thành từ đó...
(trích tư liệu)
---o0o---
Trong 3 huyện của phủ Hoài Nhơn bấy giờ, Tuy Viễn là địa phương tập trung phát triển mạnh hơn cả.
Trước khi quay trở lại khu vực thịnh vượng của xứ Đàng Trong, mình nhìn sơ qua 3 huyện trên một lượt (tức là đi dọc con đường ven biển Bình Định)
---o0o---
Một góc Tam Quan Nam.
Nơi đây nổi tiếng về diện tích trồng dừa và nghề làm bánh tráng, còn con gái thì nước da trắng (ko biết có phải tụi nó tắm bằng nước dừa ko)
"Công đâu công uổng, công thừa
Công đâu gánh nước tưới dừa Tam Quan"
Đường tắt vào Hoài Hương, Hoài Nhơn
Một góc biển Hoài Hương
Tả ngạn và hữu ngạn sông Lại Giang (1 trong 3 dòng sông lớn ở Bình Định)
Biển Lộ Diêu
Cửa biển Hà Ra, Mỹ Đức, Phù Mỹ
Đoạn tỉnh lộ qua Mỹ Thọ, Phù Mỹ
Đầm Đề Gi, Mỹ Chánh
Một gánh chợ quê ở Mỹ Cát
Ruộng muối Phù Cát
Đoạn tỉnh lộ 639, cách Đề Gi 17 km
Khu du lịch Vĩnh Hội
Đường đi Cát Chánh
Biển Trung Lương
Biển Phong Điện
Ven đường Cát Chánh, Phù Cát
Cát Nhơn & Cát Tường, Phù Cát (tỉnh lộ 635)
Đập nước thủy lợi ở Nhơn Thành, An Nhơn
Cầu Bà Di (đi thẳng ra Quãng Ngãi, rẽ trái lên Tây Sơn, An Khê)
Ngả ba Tân An (QL1 và đường tránh đi qua thị xã Bình Định)
Đập nước thủy lợi ở Liêm Trực (thị xã Bình Định)
Nhánh sông Côn chảy qua bến đò Trường Thi, Nhơn Hòa, An Nhơn
Gọi là bến đò Trường Thi vì bên này sông có di tích trường thi mà ngày xưa triều đình mở khóa thi cho thí sinh lều chõng. Nay trên nền di tích đó là lò gạch. Nơi này còn gắn liền với bến My Lăng đã đi vào văn học qua bài thơ Bến My Lăng nổi tiếng của nhà thơ Yến Lan.
“Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách,
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu.
Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để gió lén mơn râu...”
Em sinh ra bên bến sông này. Ngày đó, đi cầu tre để qua thị trấn học, con nít trong thôn vẫn hay té xuống sông, dì em đi bán rau từng bị lũ cuốn trôi sắp mất mạng, ông Ngoại trước khi nhắm mắt chỉ trông được một lần nhìn thấy cầu bê tông bắc qua…
Ngày mùa trên cánh đồng Nhơn Khánh, An Nhơn
Hồ Núi Một, Nhơn Tân, An Nhơn
Bình Nghi, Tây Sơn
Hoa dại ven đường
Di tích núi Thạch Bi (còn gọi là núi Đá Bia)
---o0o---
>> Phủ Quy Nhơn dưới triều Tây Sơn
Năm 1390, khi số phận anh hùng của Chế Bồng Nga chôn vùi trên đất Thăng Long, vương quốc Champa suy yếu hẳn.
Năm 1402, triều Hồ cho quân đánh chiếm đất Chiêm Động, Cổ Lũy mở thêm đất đai hai châu Thăng Long và Tư Nghĩa, người Việt vào lập làng trên những phần đất của 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi hiện nay.
70 năm sau, vào thời cực thịnh của nhà Lê, vua Lê Thánh Tôn đánh chiếm kinh thành Vijaya, bắt vua Chiêm là Trà Bồng và hơn 3 vạn người làm tù binh. Mồng 1 tháng 3 năm Hồng Đức thứ 2 (1471) nước Đại Việt mở đất đến núi Thạch Bi.
Núi Thạch Bi ở ranh giới hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay, là biên giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành sau năm 1471. Sau chiến thắng này, vua Lê Thánh Tông đã cho mài đá khắc bia ở đỉnh núi cao nhất, bên bờ biển, dựng bia làm mốc giới ghi lại như một lời thề với núi sông. Tương truyền Vua cho khắc hai dòng chữ:
“Chiêm Thành quá thử, binh bại quốc vong
An Nam quá thử, tướng tru binh diệt”
Có nghĩa là: Chiêm Thành qua đấy, quân thua nước mất; An Nam qua đấy, tướng chết quân tan (theo Nguyễn Siêu, Phương đình dư địa chí, bản dịch Ngô Mạnh Minh, Sài Gòn, Tự Do, 1960, tr.132)
Nước Champa suy yếu, bại trận lại bị chia thành 3 tiểu quốc:
. Chiêm Thành: từ núi Thạch Bi trở về Nam, phong cho Bố Trì Trì, một tướng Chiêm xin hàng phục
. Nam Bàn: từ núi Thạch Bi trở về phía Tây cho dòng dõi vua Chiêm
. Hoa Anh: nước này nhanh chóng bị suy yếu, tàn lụi nên chưa xác minh được
Từ năm 1471, lập phủ Hoài Nhơn và sau đó là phủ Quy Nhơn, lãnh thổ chỉ đến đèo Cù Mông. Phủ Hoài Nhơn có 3 huyện là Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn
Từ đó người Việt bắt đầu tiến dần vào sinh sống ở phủ Hoài Nhơn. Ngoài dân nghèo vào lập nghiệp còn có lực lượng quân đội, đặc biệt là các phạm nhân bị tội lưu đày cũng được quân đội hóa thành lực lượng chiến đấu và sản xuất ở vệ Hoài Nhơn. Trong Lịch triều Hiến chương loại chí có ghi chi tiết này: “Tháng 4 (năm Hồng Đức thứ 5-1474) có sắc chỉ rằng: Tù xử tội lưu, đi cận châu thì sung vệ quân Thăng Hoa, đi ngoại châu thì sung về Tư Nghĩa, đi viễn châu thì sung về quân Hoài Nhơn, tội nhân được tha chết cũng sung về quân Hoài Nhơn” (Phan Huy Chú, lịch triều hiến chương loại chí, hình luật chí ).
Chúng ta hình dung đó là lớp cư dân đầu tiên của người Việt vào thế kỷ XV di dân đến đất phủ Hoài Nhơn, một cộng đồng nông dân nghèo, binh lính và phạm nhân trọng tội được đặc ân cho lưu đày và được quân đội hóa. Các làng xã cũng được hình thành từ đó...
(trích tư liệu)
---o0o---
Trong 3 huyện của phủ Hoài Nhơn bấy giờ, Tuy Viễn là địa phương tập trung phát triển mạnh hơn cả.
Trước khi quay trở lại khu vực thịnh vượng của xứ Đàng Trong, mình nhìn sơ qua 3 huyện trên một lượt (tức là đi dọc con đường ven biển Bình Định)
---o0o---
Một góc Tam Quan Nam.
Nơi đây nổi tiếng về diện tích trồng dừa và nghề làm bánh tráng, còn con gái thì nước da trắng (ko biết có phải tụi nó tắm bằng nước dừa ko)
"Công đâu công uổng, công thừa
Công đâu gánh nước tưới dừa Tam Quan"
Đường tắt vào Hoài Hương, Hoài Nhơn
Một góc biển Hoài Hương
Tả ngạn và hữu ngạn sông Lại Giang (1 trong 3 dòng sông lớn ở Bình Định)
Biển Lộ Diêu
Cửa biển Hà Ra, Mỹ Đức, Phù Mỹ
Đoạn tỉnh lộ qua Mỹ Thọ, Phù Mỹ
Đầm Đề Gi, Mỹ Chánh
Một gánh chợ quê ở Mỹ Cát
Ruộng muối Phù Cát
Đoạn tỉnh lộ 639, cách Đề Gi 17 km
Khu du lịch Vĩnh Hội
Đường đi Cát Chánh
Biển Trung Lương
Biển Phong Điện
Ven đường Cát Chánh, Phù Cát
Cát Nhơn & Cát Tường, Phù Cát (tỉnh lộ 635)
Đập nước thủy lợi ở Nhơn Thành, An Nhơn
Cầu Bà Di (đi thẳng ra Quãng Ngãi, rẽ trái lên Tây Sơn, An Khê)
Ngả ba Tân An (QL1 và đường tránh đi qua thị xã Bình Định)
Đập nước thủy lợi ở Liêm Trực (thị xã Bình Định)
Nhánh sông Côn chảy qua bến đò Trường Thi, Nhơn Hòa, An Nhơn
Gọi là bến đò Trường Thi vì bên này sông có di tích trường thi mà ngày xưa triều đình mở khóa thi cho thí sinh lều chõng. Nay trên nền di tích đó là lò gạch. Nơi này còn gắn liền với bến My Lăng đã đi vào văn học qua bài thơ Bến My Lăng nổi tiếng của nhà thơ Yến Lan.
“Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách,
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu.
Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để gió lén mơn râu...”
Em sinh ra bên bến sông này. Ngày đó, đi cầu tre để qua thị trấn học, con nít trong thôn vẫn hay té xuống sông, dì em đi bán rau từng bị lũ cuốn trôi sắp mất mạng, ông Ngoại trước khi nhắm mắt chỉ trông được một lần nhìn thấy cầu bê tông bắc qua…
Ngày mùa trên cánh đồng Nhơn Khánh, An Nhơn
Hồ Núi Một, Nhơn Tân, An Nhơn
Bình Nghi, Tây Sơn
Hoa dại ven đường
Di tích núi Thạch Bi (còn gọi là núi Đá Bia)
---o0o---
>> Phủ Quy Nhơn dưới triều Tây Sơn
Được sửa bởi phulam ngày 22/4/2013, 23:49; sửa lần 1.